Kháng Thư số 9
của Khối 8406
của Khối 8406
phản đối Chỉ Thị 37/2006/CT-TTg
“Về việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị
về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo & quản lý báo chí”
do Ông Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 29-11-2006
“Về việc thực hiện kết luận của Bộ Chính trị
về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo & quản lý báo chí”
do Ông Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 29-11-2006
Việt Nam, ngày 8 tháng 12 năm 2006
I. Căn cứ trên:
1- Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên HiệpQuốc năm 1948, Việt Nam xin tham gia năm 1977, Điều 19: “Aicũng có quyền tự do bày tỏ quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm củamình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiếnbằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. ” 2-Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được LiênHiệp Quốc biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982, Điều19: “1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mìnhmà không bị ai can thiệp vào.2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tintức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viếthoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phươngtiện truyền thông đại chúng nào khác theo sự lựa chọn của mình. ” 3-Tuyên ngôn Phụ đính Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên HiệpQuốc ngày 09-12-1998, Điều 6: “Quyền Tự Do Ngôn Luận vàPhát Biểu: Chiếu Điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền “Ai cũng cóQuyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến các tin tức, ý kiến bằng mọiphương tiện truyền thông, không kể biên giới Quốc gia. Ai cũng cóQuyền giữ vững quan niệm và phát biểu quan điểm mà không bị (nhà cầmquyền) can thiệp. ” 4-Hiến pháp Nhà cầm quyền CSVN năm 1992, Điều 146: “Hiến phápNước CHXHCNVN là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý caonhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp (này). Và Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. ” II. Khối 8406 chúng tôi cương quyết khẳng định rằng:
1- Chính phần b Điều 146 của Hiến pháp 1992 nói trên: Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp (này) là nền tảng để vô hiệu hóa bất cứ Pháp lệnh, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư… nào không phù hợp với các Quyền của Công dândo chính Hiến pháp 1992 này quy định. Thậm chí nó còn vô hiệu hóa bất cứ Điều luật nào trong Hiến pháp này mâu thuẫn với các Quyền Công dân nói trên, vì trong trường hợp ấy chính Hiến pháp đã tự vi hiến (tự mâu thuẫn). 2-Nếu có Pháp lệnh, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, …nào mâu thuẫn với khẳng định ở phần cơ bản của Điều 69 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình” , thì Văn bản pháp luật ấy đã VI HIẾN TRẦM TRỌNG, dù Hiếnpháp ấy còn rất nhiều điều tự mâu thuẫn và đang mâu thuẫn với cácTuyên ngôn, Công ước Quốc tế … hiện hành của Liên Hiệp Quốc, bởi lẽnó đã phát sinh do ý muốn độc tôn của đảng cộng sản độc tài, khôngxứng đáng được gọi là “Hiến Pháp”, và chắc chắn trong tương lai gần, Toàn Dân Việt sẽ phải hợp lực để hủy bỏ và thay thế. 3-Vì thế: cụm từ “theo quy định của pháp luật’’ được thêm vào cuối Điều 69 (như cuối các Điều 54,57,62,68,73,80 Hiến pháp) mà Nhà cầm quyền độc tài hạng bét nào cũng luôn biếtcách xảo trá thêm vào, để khống chế và có khi xoá sạch các quyền vừa được Điều 69 này xác nhận, đã bị chính phần b của Điều 146 nói trên vô hiệu hóa. 4-Vậy, Chỉ Thị 37/2006/CT-TTg do Ông Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 29-11-2006 để thực hiện Thông báo kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo & quản lý báo chí, do Ông Trương Tấn Sang ký ngày 11-10 -2006, đã vi hiến và mâu thuẫn với điều 69 & 146 Hiến pháp năm 1992 khi viếtở mục 2 khoản d) : “Phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn, làm tốt công tác động viên, khen thưởng để phát huy tốt vai trò của báo chí; đồng thời, chỉ đạo uốn nắn kịp thời và xử lý đúng pháp luật các sai phạm của báo chí. Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước. ” 5-Luật Báo chí của Nhà cầm quyền CSVN năm 1989, Điều 10: “Báo chí phải tuân theo những điều sau đây: 1. Không được kích động Nhân dân chống Nhà nước CHXHCNVN, … 3. Không được tiết lộ bí mật Nhà nước: bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định. ” ; Luật Bổ sung năm 1999 sửa đổi Luật Báo chí năm 1989, Điều 6: “Báo chí có nhiệm vụ … 2. Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, …xây dựng chủ nghĩa xã hội…”. Những Điều ấy cho thấy rõ ràng là đảng CSVN chỉ muốn mọi phương tiện thông tin đại chúng trong Nước trước hết và trên hết phải giúp cho đảng CSVN và Nhà cầm quyền CSVN trường trị. Mọi sai lầm và tội ác của đảng và Nhà cầm quyền phải được coi là những bí mật Quốc gia, báo chí tuyệt đối không được tiết lộ!!! Một trong các nghịch lý điển hình đang rất phổ biến tại Việt Nam: Trong khi Nhà nước là “đầy tớ” thì ra đến 600 tờ báo và nắm hết mọi cơ quan và phương tiện thông tin, còn Nhân dân là “ông chủ” thì lại không được quyền ra một tờ báo nhỏ nào hết!!! 6-Các pháp quy nói trên của Nhà cầm quyền CSVN đã vi phạm đặc biệt nghiêm trọng các Văn kiện của Công pháp Quốc tế được nêu ở các số 1-2-3 Mục I của Kháng Thư này. III. Từ các nền tảng trên đây, Khối 8406 chúng tôi quyết liệt tuyên bố trước công luận trong Nước và quốc tế rằng:
1- Chúng tôi cực lực phản đối cácđiều nêu trên trong Luật Báo chí hiện hành của Nhà cầm quyền CSVN và yêu cầu Nhà cầm quyền CSVN phải huỷ bỏ, sửa đổi các quy định mâu thuẫn với Quyền Tự do Thông tin, Tự do Ngôn luận, Tự do Báo chí doLiên Hiệp Quốc đã thừa nhận cho Nhân loại toàn cầu. 2-Bộ Chính trị đảng CSVN đã có Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 về nền báo chí Việt Nam song cố tình che giấu, vì muốn xin được gia nhập WTO, được tổ chức Hội nghị APEC 14-2006. Nhưng liền ngay sau khi được vào WTO ngày 7-11-2006 và tổ chức xong Hội nghị APEC ngày 19-11-2006, thì ngày 29-11-2006 Ông Nguyễn Tấn Dũng đã ký ngay “Chỉ Thị số 37 về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí”. Điều đó chứng tỏ nhà cầm quyền CSVN vẫn giữ: (a) Não trạng độc tài, coi Nhân dân như bầy tôi, cỏ rác, chỉ có bổn phận tuân hành ý muốn tối thượng của đảng, cụ thể là của Bộ Chính trị. (b) Não trạng hốt hoảng do sợ hãi sự thật. Khi không nắm đượclẽ phải, thì ấu trĩ, ngoan cố và tuyệt vọng tìm cách bịt miệng quần chúng. (c) Chủ trương ngu dân, muốn biến mọi Côngdân thành một bầy đàn, chỉ được quyền nói những gì đảng cho nói, biết những gì đảng cho biết, tin những điều đảng bảo tin, coi đảng là nguồn của sự thật và sự thiện. (d) Chủ trương bưng bít, dùng quyền lực để cấm loan tin về vô số sai lầm và tội ác của đảng, cụ thể của Bộ Chính trị, của các Uỷ viên Trung ương, của hàng lãnh đạo cao cấp. (e) Đầu óc mê muội, không thấy xu hướng dân chủ, minh bạch, công khai của thời đại, khát vọng cất lên tiếng nói chân thực của Toàn Dân, chẳng nhận ra sự tiến bộ lạ lùng và sứcmạnh vô địch của các phương tiện truyền thông đại chúng. (f) Đầuóc dối trá, chuyên lật lọng, lường gạt, ngụy biện trong cách hành xử với Đồng bào, với Quốc tế và với Lịch sử. 3-Nhân ngày Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc 10-12-2006, chúng tôi tha thiết kêu gọi Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, các Chínhphủ, các Vị Lãnh đạo chính trị và các Chính khách vừa tham dự Hội nghị APEC 14-2006 tại Việt Nam, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Cơ quan Ngôn luận hoàn vũ, toàn thể Đồng bào Việt Nam hải ngoại: Trước hết hãy nhận ra được sự gian xảo lọc lừa của Nhàcầm quyền CSVN, để thận trọng trong bang giao hợp tác; tiếp đến hãytìm mọi cách hữu hiệu buộc Nhà cầm quyền CSVN phải theo những nguyên tắc hành xử văn minh của thế giới, chấp hành những điều cam kết vớiCộng đồng Nhân loại, đối xử đúng với Công dân của mình theo Pháp luật phù hợp với các tiêu chí của Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi đặc biệt kêu gọi các Nhà Trí thức vàcác Bậc Tu hành là những người hiểu hơn ai hết: Tự do Ngôn luận là linh hồn của mọi Tự do; có bổn phận hơn ai hết trong việc lên tiếng cho Chân lý, Công bình, Tình thương và Nhân phẩm. Ước gì các Nhân sĩ Việt luôn đi đầu trong sứ mạng giải thoát Toàn Dân khỏi tai ách của dối trá, xích xiềng của sợ hãi vàbóng tối của mê muội. 4-Chúng tôi tin tưởng và mong đợi 8.000 nhà báo của hơn 600 tờ báo tại Việt Nam luôn kiên định với danh dự, lương tâm và chức nghiệp cao cả của người cầm bút, luôn phải là người phục vụ và bảo vệ Chân lý chứ không phải là nô bộc của đảng Cộng sản; biết can đảm nói lên sự thống khổ, nỗi khát khao, niềm hy vọng của toàn thể Dân tộc, không cam lòng làm công cụ tuyên truyền cho một tập đoàn đang ngồi trên Pháp luật và đưa Đất nước đến chỗ khủng hoảng, bế tắc không lối thoát như hiện nay. Chúngtôi hết lòng khâm phục những Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang sẵn sàng viết bằng máu nếu không thể viết bằng mực, sẵn sàng liều chết để Đồng bào được sống, sẵn sàng vào nhà tù nhỏ để Nhân dân thoát khỏi nhà tù lớn, sẵn sàng bị bịt miệng để mọi người được ung dung cất tiếng nói, sẵn sàng chịu mọi sự khống chế để giành lại mọi Tự do cho con cháu Lạc Hồng. 5-Nhân đây, một lần nữa, chúng tôi xin lặp lại lờikêu gọi và đề nghị, nếu có thể được, tất cả Thành viên Khối 8406 quốc nội - hải ngoại, tất cả Thành viên Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam trong và ngoài Nước, toàn thể Đồng bào VN yêu chuộng Tự do - Dân chủ cho VN, cũng như mọi Người Thiện chí quan tâm đến Dân chủ Việt Nam trên toàn cầu:
- Hiệp thông với các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang bị đàn áp khốc liệt tại quốc nội,
- Nhắc nhở Mọi Người quyết tâm kiên trì đấu tranh cho Dân chủ và Tự do Báo chí Việt Nam,
- Đồng thời cũng nhắc nhở Nhà cầm quyền CSVN biết rằng: Lòng Dân đang khao khát Tự do Dân chủ cho Tổ quốc là không thể đảo ngược. Tuyên kháng tại Việt Nam, ngày 8 tháng 12 năm 2006
Đại diện lâm thời Khối 8406
(gồm 2.133 Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình
và hàng vạn Công dân quốc nội & hải ngoại:
Công dân Đỗ Nam Hải, kỹ sư, Sài Gòn.
Công dân Trần Anh Kim, Cựu Sĩ quan, Thái Bình.
Công dân Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo, Huế.
1- Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên HiệpQuốc năm 1948, Việt Nam xin tham gia năm 1977, Điều 19: “Aicũng có quyền tự do bày tỏ quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm củamình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiếnbằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia. ” 2-Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được LiênHiệp Quốc biểu quyết năm 1966, Việt Nam xin tham gia năm 1982, Điều19: “1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mìnhmà không bị ai can thiệp vào.2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tintức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viếthoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phươngtiện truyền thông đại chúng nào khác theo sự lựa chọn của mình. ” 3-Tuyên ngôn Phụ đính Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên HiệpQuốc ngày 09-12-1998, Điều 6: “Quyền Tự Do Ngôn Luận vàPhát Biểu: Chiếu Điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền “Ai cũng cóQuyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến các tin tức, ý kiến bằng mọiphương tiện truyền thông, không kể biên giới Quốc gia. Ai cũng cóQuyền giữ vững quan niệm và phát biểu quan điểm mà không bị (nhà cầmquyền) can thiệp. ” 4-Hiến pháp Nhà cầm quyền CSVN năm 1992, Điều 146: “Hiến phápNước CHXHCNVN là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý caonhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp (này). Và Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật. ” II. Khối 8406 chúng tôi cương quyết khẳng định rằng:
1- Chính phần b Điều 146 của Hiến pháp 1992 nói trên: Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp (này) là nền tảng để vô hiệu hóa bất cứ Pháp lệnh, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư… nào không phù hợp với các Quyền của Công dândo chính Hiến pháp 1992 này quy định. Thậm chí nó còn vô hiệu hóa bất cứ Điều luật nào trong Hiến pháp này mâu thuẫn với các Quyền Công dân nói trên, vì trong trường hợp ấy chính Hiến pháp đã tự vi hiến (tự mâu thuẫn). 2-Nếu có Pháp lệnh, Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư, …nào mâu thuẫn với khẳng định ở phần cơ bản của Điều 69 Hiến pháp 1992: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình” , thì Văn bản pháp luật ấy đã VI HIẾN TRẦM TRỌNG, dù Hiếnpháp ấy còn rất nhiều điều tự mâu thuẫn và đang mâu thuẫn với cácTuyên ngôn, Công ước Quốc tế … hiện hành của Liên Hiệp Quốc, bởi lẽnó đã phát sinh do ý muốn độc tôn của đảng cộng sản độc tài, khôngxứng đáng được gọi là “Hiến Pháp”, và chắc chắn trong tương lai gần, Toàn Dân Việt sẽ phải hợp lực để hủy bỏ và thay thế. 3-Vì thế: cụm từ “theo quy định của pháp luật’’ được thêm vào cuối Điều 69 (như cuối các Điều 54,57,62,68,73,80 Hiến pháp) mà Nhà cầm quyền độc tài hạng bét nào cũng luôn biếtcách xảo trá thêm vào, để khống chế và có khi xoá sạch các quyền vừa được Điều 69 này xác nhận, đã bị chính phần b của Điều 146 nói trên vô hiệu hóa. 4-Vậy, Chỉ Thị 37/2006/CT-TTg do Ông Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 29-11-2006 để thực hiện Thông báo kết luận số 41-TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo & quản lý báo chí, do Ông Trương Tấn Sang ký ngày 11-10 -2006, đã vi hiến và mâu thuẫn với điều 69 & 146 Hiến pháp năm 1992 khi viếtở mục 2 khoản d) : “Phải thường xuyên kiểm tra, hướng dẫn, làm tốt công tác động viên, khen thưởng để phát huy tốt vai trò của báo chí; đồng thời, chỉ đạo uốn nắn kịp thời và xử lý đúng pháp luật các sai phạm của báo chí. Kiên quyết không để tư nhân hóa báo chí dưới mọi hình thức và không để bất cứ tổ chức hoặc cá nhân nào lợi dụng, chi phối báo chí để phục vụ lợi ích riêng, gây tổn hại lợi ích đất nước. ” 5-Luật Báo chí của Nhà cầm quyền CSVN năm 1989, Điều 10: “Báo chí phải tuân theo những điều sau đây: 1. Không được kích động Nhân dân chống Nhà nước CHXHCNVN, … 3. Không được tiết lộ bí mật Nhà nước: bí mật quân sự, an ninh, kinh tế, đối ngoại và những bí mật khác do pháp luật quy định. ” ; Luật Bổ sung năm 1999 sửa đổi Luật Báo chí năm 1989, Điều 6: “Báo chí có nhiệm vụ … 2. Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng và bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước, …xây dựng chủ nghĩa xã hội…”. Những Điều ấy cho thấy rõ ràng là đảng CSVN chỉ muốn mọi phương tiện thông tin đại chúng trong Nước trước hết và trên hết phải giúp cho đảng CSVN và Nhà cầm quyền CSVN trường trị. Mọi sai lầm và tội ác của đảng và Nhà cầm quyền phải được coi là những bí mật Quốc gia, báo chí tuyệt đối không được tiết lộ!!! Một trong các nghịch lý điển hình đang rất phổ biến tại Việt Nam: Trong khi Nhà nước là “đầy tớ” thì ra đến 600 tờ báo và nắm hết mọi cơ quan và phương tiện thông tin, còn Nhân dân là “ông chủ” thì lại không được quyền ra một tờ báo nhỏ nào hết!!! 6-Các pháp quy nói trên của Nhà cầm quyền CSVN đã vi phạm đặc biệt nghiêm trọng các Văn kiện của Công pháp Quốc tế được nêu ở các số 1-2-3 Mục I của Kháng Thư này. III. Từ các nền tảng trên đây, Khối 8406 chúng tôi quyết liệt tuyên bố trước công luận trong Nước và quốc tế rằng:
1- Chúng tôi cực lực phản đối cácđiều nêu trên trong Luật Báo chí hiện hành của Nhà cầm quyền CSVN và yêu cầu Nhà cầm quyền CSVN phải huỷ bỏ, sửa đổi các quy định mâu thuẫn với Quyền Tự do Thông tin, Tự do Ngôn luận, Tự do Báo chí doLiên Hiệp Quốc đã thừa nhận cho Nhân loại toàn cầu. 2-Bộ Chính trị đảng CSVN đã có Thông báo kết luận số 41-TB/TW ngày 11-10-2006 về nền báo chí Việt Nam song cố tình che giấu, vì muốn xin được gia nhập WTO, được tổ chức Hội nghị APEC 14-2006. Nhưng liền ngay sau khi được vào WTO ngày 7-11-2006 và tổ chức xong Hội nghị APEC ngày 19-11-2006, thì ngày 29-11-2006 Ông Nguyễn Tấn Dũng đã ký ngay “Chỉ Thị số 37 về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo và quản lý báo chí”. Điều đó chứng tỏ nhà cầm quyền CSVN vẫn giữ: (a) Não trạng độc tài, coi Nhân dân như bầy tôi, cỏ rác, chỉ có bổn phận tuân hành ý muốn tối thượng của đảng, cụ thể là của Bộ Chính trị. (b) Não trạng hốt hoảng do sợ hãi sự thật. Khi không nắm đượclẽ phải, thì ấu trĩ, ngoan cố và tuyệt vọng tìm cách bịt miệng quần chúng. (c) Chủ trương ngu dân, muốn biến mọi Côngdân thành một bầy đàn, chỉ được quyền nói những gì đảng cho nói, biết những gì đảng cho biết, tin những điều đảng bảo tin, coi đảng là nguồn của sự thật và sự thiện. (d) Chủ trương bưng bít, dùng quyền lực để cấm loan tin về vô số sai lầm và tội ác của đảng, cụ thể của Bộ Chính trị, của các Uỷ viên Trung ương, của hàng lãnh đạo cao cấp. (e) Đầu óc mê muội, không thấy xu hướng dân chủ, minh bạch, công khai của thời đại, khát vọng cất lên tiếng nói chân thực của Toàn Dân, chẳng nhận ra sự tiến bộ lạ lùng và sứcmạnh vô địch của các phương tiện truyền thông đại chúng. (f) Đầuóc dối trá, chuyên lật lọng, lường gạt, ngụy biện trong cách hành xử với Đồng bào, với Quốc tế và với Lịch sử. 3-Nhân ngày Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc 10-12-2006, chúng tôi tha thiết kêu gọi Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, các Chínhphủ, các Vị Lãnh đạo chính trị và các Chính khách vừa tham dự Hội nghị APEC 14-2006 tại Việt Nam, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Cơ quan Ngôn luận hoàn vũ, toàn thể Đồng bào Việt Nam hải ngoại: Trước hết hãy nhận ra được sự gian xảo lọc lừa của Nhàcầm quyền CSVN, để thận trọng trong bang giao hợp tác; tiếp đến hãytìm mọi cách hữu hiệu buộc Nhà cầm quyền CSVN phải theo những nguyên tắc hành xử văn minh của thế giới, chấp hành những điều cam kết vớiCộng đồng Nhân loại, đối xử đúng với Công dân của mình theo Pháp luật phù hợp với các tiêu chí của Liên Hiệp Quốc. Chúng tôi đặc biệt kêu gọi các Nhà Trí thức vàcác Bậc Tu hành là những người hiểu hơn ai hết: Tự do Ngôn luận là linh hồn của mọi Tự do; có bổn phận hơn ai hết trong việc lên tiếng cho Chân lý, Công bình, Tình thương và Nhân phẩm. Ước gì các Nhân sĩ Việt luôn đi đầu trong sứ mạng giải thoát Toàn Dân khỏi tai ách của dối trá, xích xiềng của sợ hãi vàbóng tối của mê muội. 4-Chúng tôi tin tưởng và mong đợi 8.000 nhà báo của hơn 600 tờ báo tại Việt Nam luôn kiên định với danh dự, lương tâm và chức nghiệp cao cả của người cầm bút, luôn phải là người phục vụ và bảo vệ Chân lý chứ không phải là nô bộc của đảng Cộng sản; biết can đảm nói lên sự thống khổ, nỗi khát khao, niềm hy vọng của toàn thể Dân tộc, không cam lòng làm công cụ tuyên truyền cho một tập đoàn đang ngồi trên Pháp luật và đưa Đất nước đến chỗ khủng hoảng, bế tắc không lối thoát như hiện nay. Chúngtôi hết lòng khâm phục những Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang sẵn sàng viết bằng máu nếu không thể viết bằng mực, sẵn sàng liều chết để Đồng bào được sống, sẵn sàng vào nhà tù nhỏ để Nhân dân thoát khỏi nhà tù lớn, sẵn sàng bị bịt miệng để mọi người được ung dung cất tiếng nói, sẵn sàng chịu mọi sự khống chế để giành lại mọi Tự do cho con cháu Lạc Hồng. 5-Nhân đây, một lần nữa, chúng tôi xin lặp lại lờikêu gọi và đề nghị, nếu có thể được, tất cả Thành viên Khối 8406 quốc nội - hải ngoại, tất cả Thành viên Liên Minh Dân Chủ Nhân Quyền Việt Nam trong và ngoài Nước, toàn thể Đồng bào VN yêu chuộng Tự do - Dân chủ cho VN, cũng như mọi Người Thiện chí quan tâm đến Dân chủ Việt Nam trên toàn cầu:
chọnhai ngày 01 & 15 mỗi tháng làm:
NGÀY DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM
NGÀY TOÀN DÂN MẶC ÁO TRẮNG
khi đi làm, đi học, và trong mọi sinh hoạt văn hoá - giải trí… (trừ khi phải khoác áo ấm), để:NGÀY DÂN CHỦ CHO VIỆT NAM
NGÀY TOÀN DÂN MẶC ÁO TRẮNG
- Hiệp thông với các Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình đang bị đàn áp khốc liệt tại quốc nội,
- Nhắc nhở Mọi Người quyết tâm kiên trì đấu tranh cho Dân chủ và Tự do Báo chí Việt Nam,
- Đồng thời cũng nhắc nhở Nhà cầm quyền CSVN biết rằng: Lòng Dân đang khao khát Tự do Dân chủ cho Tổ quốc là không thể đảo ngược. Tuyên kháng tại Việt Nam, ngày 8 tháng 12 năm 2006
Đại diện lâm thời Khối 8406
(gồm 2.133 Chiến sĩ Dân chủ Hòa bình
và hàng vạn Công dân quốc nội & hải ngoại:
Công dân Đỗ Nam Hải, kỹ sư, Sài Gòn.
Công dân Trần Anh Kim, Cựu Sĩ quan, Thái Bình.
Công dân Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo, Huế.