Thursday

Kháng Thư số 06
của Khối 8406

gồm 1.733 Chiến sĩ Hoà bình và hàng vạn Công dân quốc nội
đấu tranh cho Tự do Dân chủ tại Việt Nam

về việc Nhà cầm quyền CSVN đàn áp thô bạo các Công dân
vì lý do tôn giáo và chính kiến chỉ trong thời gian 2 tháng gần đây nhất.


Việt Nam, ngày 07 tháng 7 năm 2006

I. Căn cứ vào:

I.1
- Thông báo khẩn cấp ngày 04-05-2006, Bản phúc trình ngày 28-5-2006, Bản tường trình ngày 07-06-2006 và Thông báo khẩn cấp ngày 29-06-2006 của Mục sư Nguyễn Công Chính, quản nhiệm các Hội thánh Tin lành Mennonite cộng đồng các Dân tộc tại Tây nguyên về việc Công an CSVN phạt tiền buộc chủ nhà đuổi Mục sư không cho cư trú và sách nhiễu, thẩm vấn, khủng bố gia đình Mục sư vì Mục sư truyền đạo Tin lành ở Tây Nguyên;

I.2- Thông báo khẩn cấp ngày 11-06-2006 của Mục sư Nguyễn Công Chính và Thư ký Y-Djik, Đại diện Hội đồng Tin lành Mennonite Tây nguyên về việc Công an bắt các Tín hữu Tin Lành bỏ đạo và bắt giam Chấp sự đạo Tin lành;

I.3- Văn thư ngày 20-6-2006 của Ông Nguyễn Trung Tôn, Đại diện Hội thánh Phúc Âm Toàn Vẹn tại xã Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa;

I.4- Tường trình ngày 21-6-2006 của các Thành viên 8406 tỉnh Thái Bình;

I.5- Quyết định số 199/QĐ-UBND ngày 16-01-2006 của UBND Sài Gòn (tp HCM) do ông Phó chủ tịch UBND Nguyễn Thành Tài ký và Quyết định số 627/QĐ-UBND ngày 21 tháng 6 năm 2006 của UBND quận 3, Sài Gòn do ông Chủ tịch UBND Trịnh Văn Thình ký đã cưỡng chế Công dân Đỗ Nam Hải phải chịu phạt 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng VN) ;

I.6- Nguồn tin của Khối 8406 từ Hà Nội ngày 01-7- 2006.

II. Theo 6 nguồn thông tin trên, thì:

II.1- Mục sư Nguyễn Công Chính, quản nhiệm các Hội thánh Tin lành Mennonite cộng đồng các sắc tộc tại Tây nguyên, thành viên Khối 8406, đã bị Chính quyền tịch thu Sổ Hộ khẩu và các giấy tờ tuỳ thân từ năm 1999 cho đến nay vì Mục sư truyền đạo Tin lành tại Tây Nguyên, và từ ngày Nhà cầm quyền CSVN tỉnh Kon-Tum ủi sập Nhà nguyện Hội thánh Tin lành Mennonite Kon-Tum lần thứ 2 ngày 16-01-2004 (cùng lúc cũng ủi sập đến 400 (bốn trăm) Nhà nguyện khác) cho đến nay, gia đình Mục sư Chính đã phải tìm chổ tạm trú 23 lần. Đi đến đâu, chỉ không đến 02 tháng là Công an CSVN lại cưỡng ép, hù dọa chủ nhà đuổi gia đình Mục sư đi. Từ ngày 23-05-2005 đến nay, Công an CSVN phường Hoa Lư, Pleiku đã buộc chủ nhà là vợ chồng anh Nguyễn Thành Sơn, số 524 Cách Mạng Tháng 8, phường Hoa Lư, Pleiku đuổi gia đình Mục sư Chính đến 51 lần, để Mục sư Chính không thể tiếp tục truyền đạo Tin Lành tại Tây Nguyên nữa.

II.2- Từ năm 2001 đến nay, rất nhiều Mục sư, Truyền đạo, Chấp sự, Tín hữu Tin Lành đã bị Công an - Bộ đội CSVN vu khống ghép tội theo Tin lành Đê-Ga và bắt bỏ tù hàng ngàn Giáo sĩ và Tín hữu. Rất nhiều Hội thánh Tin lành Dân tộc ít người Tây Nguyên đã bị đàn áp, đánh đập, bỏ tù và buộc phải giải tán không cho sinh hoạt bày tỏ niềm tin của mình. Nhiều gia đình gặp khó khăn trong khi thân nhân ở tù oan, cha xa con, vợ xa chồng, có quá nhiều trường hợp rất thương tâm. Những cảnh Công an - Bộ đội CSVN bố ráp nửa đêm, vào nhà bịt mắt bắt Dân dẫn đi, trở thành nỗi kinh hoàng thường xuyên của các cộng đồng Tín hữu Tin Lành các Dân tộc Tây Nguyên, một loại bạo quyền bất chấp đạo lý, lạnh lùng vô cảm khống chế đàn áp họ suốt 31 năm qua.

Một bằng chứng điển hình gần đây nhất là trường hợp Chấp sự Đạo Tin Lành Ralan Punh tại Plei-Blo, xã A-Đơk, Huyện Đak-Đoa, tỉnh Gia Lai: Ngày 01-04-2004 Anh đã chạy trốn vào rừng vì Công an truy đuổi vu khống tội theo Tin Lành Đê-Ga. Ngày 04-01-2005 bị bắt và giam tù tại T20, tỉnh Gia Lai. Ngày 05-05-2005 được trả tự do về đoàn tụ với gia đình. Ngày 13-05-2006 Anh tổ chức Hội thánh cầu nguyện tại nhà. Công an Huyện Đak-Đoa cho việc theo Tin Lành Mennonite là “trái phép” (?). Ngày 18-05-2006 và ngày 08-6-2006, Công an huyện Đak-Đoa kết hợp Nhà cầm quyền xã A-Đơk làm việc tại UBND xã A-Đơk với Chấp sự Ralan Punh, lần trước buộc Chấp sự Ralan Punh ký giấy cam kết bỏ Đạo, lần sau buộc ký giấy cam kết giải tán Hội Thánh tại Plei-Blo.6 h sáng ngày 11-06-2006, khoảng 20 Công an Bộ đội kết hợp với Nhà cầm quyền CSVN xã A-Đơk xông vào giải tán Hội Thánh khi Hội Thánh đang cầu nguyện sáng Chúa nhật (11-06-2006), rồi còng tay Chấp sự Ralan Punh bỏ lên xe Jeep đem về đồn công an Huyện Đak-Đoa và cho đến ngày 11-6-2006 Mục sư Chính viết Thông báo khẩn cấp, Hội thánh và Gia đình đều chưa biết tin tức, mặc dù Chấp sự Ralan Punh không vi phạm bất cứ điều luật nào, ngoài việc theo và truyền Đạo Tin Lành mà thôi.

II.3- Chúa nhật (CN) 09-4-2006, khi cả Hội thánh Phúc âm Toàn vẹn tại xã Thiệu Viên, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa đang nhóm lại như thường lệ, thì Công an, Ban Văn hóa xã và các tổ chức đoàn thể trong xã đến ngăn trở và bắt tất cả các tín đồ tới UBND xã, yêu cầu Hội thánh không được tổ chức lễ Phục sinh CN 16-4-2006. Do vậy CN 16-4-2006 Hội thánh phải tổ chức lễ Phục sinh ở nơi kín đáo khác.

- CN 23-4 và CN 30-4-2006 khi Hội thánh đang cầu nguyện thì Nhà cầm quyền CSVN lại đến bắt tất cả Tín đồ lên UBND xã 2 lần nữa như CN 09-4-2006.

- CN 07-5-2006, Mục sư Hồ Đức Tuấn, đại diện cho Giáo hội Phúc âm Toàn vẹn, đến cầu nguyện cùng Hội thánh, trong khi mọi người đang hát Thánh ca thì Công an và đại diện các đoàn thể của xã đến giải tán các Tín hữu. Họ đã dùng những lời lẽ thô tục nhục mạ và bắt mọi Tín hữu lên trụ sở xã, tới 13 giờ 00 mới thả về.

- CN 14-5-2006, anh Nguyễn Trung Tôn và Nguyễn Viết Thắng tới gia đình chị Minh để cầu nguyện và học Kinh Thánh chung, thì bị Ban Văn hóa xã mời cả 05 Tín hữu đến văn phòng UBND xã để nghe giải thích rằng ở xã Thiệu Viên không ai được phép theo và sinh hoạt đạo Tin Lành, bắt các Tín hữu viết tường trình rồi mới cho về.

- Ngày 26-5-2006, chị Minh đã gửi đơn lên UBND xã xin đăng ký địa điểm cầu nguyện mỗi CN, nhưng không được chấp nhận. Đến CN 28-5-2006, Hội thánh đang cầu nguyện tại nhà chị Minh thì tất cả bị mời lên xã lấy lời khai xong rồi mới cho về.

- CN 04-6-2006, khi cả Hội thánh đang cầu nguyện, thì Công an xã đến bắt tất cả Tín hữu lên UBND xã. Trên đường đi Công an đã đánh đập các Tín đồ như chị Lê, chị Đức. Trong đó có chị Nhàn bị đánh chảy máu, có thương tích. Họ đã giữ 4 người, không cho ăn trưa, sau đó lập biên bản tịch thu 4 xe đạp, và cấm các chị không được đến nhà chị Minh để thờ phượng Chúa.

- CN 11-6-2006, các Tín đồ đã không dám họp nhau cầu nguyện vì khiếp sợ.

- CN 18-6-2006, lúc 8.30 sáng, trong khi bà Lan, chị Nhàn, các anh Nguyễn Trung Tôn, Hắc Ngọc Sĩ đang ngồi uống nước tại nhà chị Minh, đợi Hội thánh đến cầu nguyện, thì Công an xã đưa tất cả Tín hữu lên UBND xã, giữ các Tín hữu ở đó không cho ăn cơm trưa, đến 4.30 chiều, Công an thẩm vấn, rồi ông Nguyễn Mạnh Hòe, trưởng Công an xã, đã đánh hai anh Tôn và Sĩ bị thương nặng, cưỡng bức mọi Tín hữu ký vào biên bản hứa không đến nhà chị Minh sinh hoạt đạo nữa. Tới 6 giờ 00 chiều họ mới thả các Tín hữu về. Ngoài Phó Công an xã Bùi Công Minh, các Công an tham gia đàn áp Tín hữu là Trần Kiệm, Hùng, Thực, Vinh, Nam.

II.4- 50 Công dân Thái Bình đã ký tên ngày 04-6-2006 trở thành Chiến sĩ Hoà bình của Tuyên Ngôn 8406, từ ngày 13-6-2006 có 6 Công dân trong số 50 Công dân ấy là Phạm Văn Doan, Dương Đại Dương, Phạm Văn Hoạch, Nguyễn Thị Kỹ, Trịnh Thị Lữ, Vũ Đức Nôm đã bị Công an các cấp thuộc tỉnh Thái Bình triệu tập, khủng bố, kết tội họ là đã “làm mất trật tự an ninh của nhà nước”. Ngày 30-6-2006, Công an đã cho 3 côn đồ đến trước cửa nhà Ông Trần Anh Kim - một trong các Đại diện lâm thời Khối 8406 - tại số 502, tổ 10, phố Trần Hưng Đạo, phường Quang Trung, thị xã Thái Bình, để quậy phá và ngăn chặn Dân đến gặp ông Trần Anh Kim, trong khi có 5 Công an ngồi canh chừng chỉ cách đó khoảng 50 mét.

II.5- Công an Phường 6, Quận 3, số 18 đường Võ Văn Tần, Quận 3, lập biên bản giữ Ông Đỗ Nam Hải, một trong các Đại diện lâm thời Khối 8406, từ 5 giờ chiều ngày 8-12-2005 đến 5 giờ chiều ngày 9-12-2005 mới được thả, vì Ông Hải đã thuê sao chụp 12 sách “HÃY TRƯNG CẦU DÂN Ý” do ông Hải biên soạn, tại tiệm photocopy Lộc đường Hai Bà Trưng, Tân Định, quận I. Ông Hải còn bị triệu tập làm việc với Công an nhiều ngày vì cùng một lý do. Căn cứ điểm a, khoản 3, điều 18 Nghị định 31/2001/NĐ-CP ngày 26-6-2001 của Nhà cầm quyền CSVN, ngày 16-1-2006, ông Nguyễn Thành Tài, Phó chủ tịch UBND thành phố Sài Gòn, đã ký Quyết định số 199/QĐ-UBND phạt Ông Hải 20.000.000 (hai mươi triệu) đồng Việt Nam, vì Ông đã “phát hành hoặc tàng trữ nhằm mục đích lưu hành xuất bản ấn phẩm thuộc loại không được phép lưu hành hoặc đã có quyết định thu hồi, tịch thu”, buộc ông Hải phải thi hành trong 10 ngày. Nhưng Ông Hải cho rằng Quyết định này đi ngược lại tinh thần của Hiến pháp và Pháp luật Việt Nam, nên cho đến nay, tức gần 6 tháng sau, Ông Hải vẫn không chịu nộp phạt, bất chấp những biện pháp, đe dọa của Nhà cầm quyền CSVN trong nhiều ngày làm việc tại Công an quận Phú Nhuận.

- Chiều 03-7-2006, Ông Hải bị triệu tập đến trụ sở UBND phường 9 để ông Chủ tịch phường trao cho kỹ sư Hải Quyết định số 627/QĐ-UBND, do ông Chủ tịch UBND quận 3 Trịnh Văn Thình ký ngày 21-6-2006 nhằm cưỡng chế Kỹ sư Đỗ Nam Hải phải chịu phạt 20.000.000 (hai mươi triệu) trong thời hạn 10 ngày, do kỹ sư Hải đã không tự nguyện thi hành biện pháp xử phạt hành chính theo quyết định số 199/QĐ-UBND do ông Nguyễn Thành Tài ký ngày 16-01-2006 nói trên. Một lần nữa kỹ sư Hải lại ghi vào phần cuối Quyết định 627/QĐ-UBND: “Tôi cương quyết phản đối Quyết định 199/QĐ – UBND, ngày 16/1/2006, của Ủy ban nhân dân T. p Hồ Chí Minh, do ông Nguyễn Thành Tài – Phó chủ tịch ký, và Quyết định 627/QĐ – UBND, ngày 21/6/2006, do ông Trịnh Văn Thình - Chủ tịch ủy ban (UBND quận 3) ký. Cả 2 Quyết định trên đều vi phạm trắng trợn các quyền căn bản của con người. Đặc biệt là các quyền Tự do thông tinTự do ngôn luận. Một lần nữa tôi khẳng định: Tôi cương quyết không đóng phạt, dù chỉ là 1 đồng! Bởi vì, nếu tôi chấp nhận đóng phạt là khuyến khích cho những việc làm tội lỗi, sai trái của các cấp cầm quyền ở Việt Nam”!

II.6- 6 giờ 30 sáng 30-6-2006, đang khi hàng chục công an vây quanh nhà Ông Nguyễn Thanh Giang, thì 12 Công an thuộc Bộ, Thành phố, huyện, xã … ập vào đọc lệnh khám nhà do thượng tá Đoàn Hữu Châu, Phó trưởng công an huyện Từ Liêm ký, Chủ tịch huyện Từ Liêm Nguyễn Văn Chí ghi: “Đồng ý để công an huyện thi hành quyết định khám xét hành chính”, rồi lục soát và tịch thu 33 cuốn sách “Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam” , dày 326 trang, là tập hợp các bài viết của ông liên quan đến vấn đề nhân quyền và dân chủ ở Việt Nam. Ông Giang tuyên bố không chịu thi hành quyết định này vì đây là một quyết định hoàn toàn không đúng. Ông cho rằng Ông không hề xuất bản sách nên Ông không vi phạm luật xuất bản, vì sách không ghi nơi xuất bản, không bán, mà được ghi rõ: “Tủ sách gia đình”. Theo ông, đây chỉ là tập hợp những bài viết được đóng bìa để lưu lại cho con cháu, họ hàng làm một kỷ niệm đẹp và biếu tặng một số bạn bè quan tâm đến vấn đề Nhân quyền và Dân chủ ở Việt Nam. Ông đã ghi vào biên bản của Công an như sau: “Nhận thức rằng việc làm này vi phạm pháp luật, hiến pháp, xúc phạm danh dự công dân và bôi nhọ nhà nước ta, nhân dân ta, tôi đã kiên quyết chống lại…, nhưng 12 công an đã bức hiếp tôi” .

III. Chúng tôi nhận thấy: 6 việc làm trên đây của Nhà cầm quyền CSVN chỉ trong 2 tháng gần đây nhất, (trong số hàng ngàn vụ đàp áp khác về thông tin ngôn luận và về tôn giáo suốt 31 năm nay) đã vi phạm đặc biệt nghiêm trọng các Văn bản Công pháp nền tảng bậc nhất sau đây:

III.1- Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc năm 1948, Việt Nam đã xin được tham gia năm 1977:

- Điều 18: “Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo, quyền này bao gồm… quyền tự do, hoặc một mình hoặc trong cộng đồng với những người khác, tại nơi công cộng hoặc riêng tư, thể hiện tín ngưỡng hay tôn giáo của mình bằng cách truyền giảng, thực hành, thờ phụng và tuân thủ các nghi lễ”.

- Điều 19: “Ai cũng có quyền tự do bày tỏ quan niệm và tự do phát biểu quan điểm; quyền này bao gồm quyền không bị ai can thiệp vì những quan niệm của mình, và quyền tìm kiếm, tiếp nhận cùng phổ biến tin tức và ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông không kể biên giới quốc gia”.

III.2- Công ước Quốc tế về các quyền dân sự và chính trị được Liên Hiệp Quốc biểu quyết năm 1966, mà Việt Nam đã xin được tham gia năm 1982:

- Điều 18: “1- Mọi người đều có quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng và tôn giáo. Quyền tự do này bao gồm tự do có hoặc theomột tôn giáo hoặc tín ngưỡng do mình lựa chọn, tự do bày tỏ tín ngưỡng hợc tôn giáo một mình hợc trong tập thể với nhiều người khác, một cách công khai hợc thầm kín dưới hình thức thờ cúng, cầu nguyện, thực hành và giảng đạo. 2- Không một ai bị ép buộc làm những điều tổn hại đến quyền tự do lựa chọn một tôn giáo hoặc tín ngưỡng”.

- Điều 19: “1- Mọi người đều có quyền giữ quan điểm của mình mà không bị ai can thiệp vào.2- Mọi người có quyền tự do ngôn luận. Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến mọi loại tin tức và ý kiến, không phân biệt ranh giới, bằng truyền miệng, bản viết hoặc bản in, bằng hình thức nghệ thuật, hoặc thông qua bất cứ phương tiện truyền thông đại chúng nào khác theo sự lựa chọn của mình”.

- Điều 5: “1- Không một quốc gia, một phe nhóm hay một cá nhân nào có quyền giải thích các điều khoản trong Công Ước này để cho phép họ hoạt động hay làm những hành vi nhằm tiêu diệt những quyền tự do đã được Công Ước thừa nhận, hoặc để giới hạn những quyền tự do này quá mức ấn định trong Công Ước.2- Các quốc gia hội viên kết ước nào đã thừa nhận một số nhân quyền căn bản trong luật pháp quốc gia, công ước, quy chế hay tục lệ, sẽ không được quyền giới hạn hay đình chỉ thi hành các nhân quyền căn bản đó, viện cớ rằng Công Ước này không thừa nhận những nhân quyền đó, hay chỉ thừa nhận trong một phạm vi hạn hẹp hơn”.

III.3- Tuyên ngôn Phụ đính Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền của Liên Hiệp Quốc ngày 09-12-1998 nhân kỷ niệm 50 năm Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền (1948-1998) :

- Điều 4. Quyền Tự Do Hội Họp: Ai cũng có Quyền Tự do hội họp trong vòng hòa bình, tổ chức thuyết trình, mít tinh, biểu tình, tuần hành, để đạo đạt thỉnh nguyện lên nhà cầm quyền, hay để phản kháng những vi phạm Nhân quyền của các viên chức và cơ quan chính quyền.
- Điều 5. Quyền Tự Do Lập Hội: Ai cũng có Quyền kết hợp trong các hội đoàn dân sự hay chính trị: (a) - Các hội dân sự sinh hoạt trong phạm vi tôn giáo đạo lý (giáo hội), kinh tế xã hội (công đoàn, nghiệp đoàn), văn hóa giáo dục, từ thiện nhân đạo, ái hữu tương tế v. . . v. . . Các hội dân sự được quyền sinh hoạt tự trị trong xã hội đa nguyên và không chịu sự giám sát của Nhà nước. (b) - Các hội chính trị hay chính đảng sinh hoạt trong chế độ dân chủ đa đảng. Dân chủ đa đảng cộng với xã hội đa nguyên họp thành Dân chủ đa nguyên.

- Điều 6. Quyền Tự Do Ngôn Luận và Phát Biểu: Chiếu điều 19 Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền “ai cũng có Quyền tìm kiếm, tiếp nhận và phổ biến các tin tức, ý kiến bằng mọi phương tiện truyền thông, không kể biên giới Quốc gia. Ai cũng có Quyền giữ vững quan niệm và phát biểu quan điểm mà không bị (nhà cầm quyền) can thiệp”.
III.4- Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992:

- Điều 69: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình…”.

- Điều 70 : “Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật”.

IV. Trước thực trạng nầy, chúng tôi, Đại diện Khối 8406 gồm 1.733 Công dân đấu tranh Dân chủ cho Việt Nam và đại diện hàng vạn Công dân Việt Nam khác, ký tên dưới đây, đồng thanh tuyên bố trước công luận quốc tế:

IV.1- Chúng tôi cực lực phản đối Nhà cầm quyền CSVN, qua các hành động đàn áp, khủng bố, đe doạ, quấy nhiễu trên đây, đã chứng tỏ việc Nhà cầm quyền CSVN khi xin được ký kết tham gia các Văn kiện Quốc tế nói trên chỉ là những hành động giả dối, quyết lừa gạt Liên Hiệp Quốc để được thừa nhận trước cộng đồng quốc tế mà thôi, còn trong thực tế, Nhà cầm quyền CSVN đã luôn tìm mọi cách để khống chế, áp bức, giới hạn các quyền tự do rất chính đáng và cơ bản của người Dân, hầu thực hiện cho bằng được chủ nghĩa và chế độ cộng sản cực kỳ hà khắc và rất độc đoán của họ, mâu thuẫn với cả Hiến pháp của chính họ đã buộc Quốc hội bù nhìn của họ thông qua năm 1992.
Các hành động nầy đã kéo nền văn minh Việt Nam lùi lại hàng chục thế kỷ, khi làm cho quyền tự do tôn giáo và thông tin ngôn luận của toàn Dân Việt Nam trong thời đại dân chủ toàn cầu này không bằng thời Thượng cổ, Trung Cổ, Đế quốc Anh và Thực dân Pháp ở Châu Âu và ngay cả tại Việt Nam. Vì cách đây hàng ngàn năm, Tổ tiên Việt Nam đã tự do hơn nhiều khi sống theo tín ngưỡng – tôn giáo của mình, và cách đây hơn 150 năm, ông Karl Max đã phổ biến “Tuyên ngôn đảng cộng sản” tại Vương quốc Anh, hoặc đầu thế kỷ XX nhóm Nguyễn Ái Quốc đã phổ biến “Bản án chế độ Thực dân Pháp” hay tạp chí “Người Cùng Khổ” (Le Paria) ngay tại Nước Pháp mà không hề gặp khó khăn nào.

Rõ ràng tại Việt Nam hiện nay, quyền tự do tôn giáo và tự do thông tin ngôn luận của toàn Dân còn thua kém và tệ hại hơn dưới các triều vua chúa phong kiến và thời Pháp thuộc nhiều, vì thời đó đã có tạp chí Tiếng Dân của cụ Huỳnh Thúc Kháng, Tiếng Chuông Rè của Nguyễn An Ninh, Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục thường xuyên vẫn được quyền công khai diễn thuyết trực tiếp chống lại Thực dân Pháp cách ôn hoà không bạo lực…

IV.2- Chúng tôi kêu gọi Liên Hiệp Quốc, các Quốc hội, các Chính phủ, các Vị Lãnh đạo chính trị và các Chính khách sẽ tham dự Hội nghị APEC tại Việt Nam vào tháng 11-2006, các Tổ chức Nhân quyền quốc tế, các Tổ chức Thông tin Báo chí quốc tế, toàn thể Đồng bào Việt Nam hải ngoại, hãy tạo các áp lực cần thiết để buộc Nhà cầm quyền CSVN phải triệt để tuân thủ nghiêm túc các Công ước Quốc tế cơ bản mà chính họ đã xin được ký kết tham gia, nếu Nhà cầm quyền CSVN thực tâm muốn đưa Dân tộc hoà nhập sinh hoạt nhân văn đạo đức của Cộng đồng Nhân loại hôm nay.

Tuyên kháng tại Việt Nam, ngày 07 tháng 7 năm 2006

Đại diện lâm thời Khối 8406
(gồm 1.733 Chiến sĩ Hoà bình và hàng vạn Công dân quốc nội):

Công dân Đỗ Nam Hải, Sài Gòn.
Công dân Trần Anh Kim, Thái Bình.
Công dân Nguyễn Văn Lý, Huế.

TRỞ VỀ
TRANG ĐẦU TIÊN



______________________________________________________